Thứ Ba, 29 tháng 10, 2019

ĐỊNH QUỐC CÔNG NGUYỄN BẶC

Nguyễn Bặc là đệ nhất công thần, một trong “tứ trụ” của nhà Đinh. Ông sinh năm Giáp Thân (924) cùng tuổi và cùng làng Đại Hữu với vua Đinh. Sau này, ông giúp Đinh Bộ Lĩnh bình định mười hai sứ quân, lập công lớn, được vua Đinh phong là Định Quốc Công, vị trí như Tể tướng trong triều đình nhà Đinh.


Theo gia phả, Nguyễn Bặc là con trai Nguyễn Thước, một gia tướng của Dương Đình Nghệ. Hiện nay, gần núi Kỳ Lân thuộc thôn Văn Hà, xã Gia Phương (Gia Viễn, Ninh Bình) còn di tích mộ phát tích của họ Nguyễn Bặc và họ Đinh Bộ Lĩnh.

Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh dấy binh ở động Hoa Lư để mưu cầu thống nhất giang sơn. Nguyễn Bặc đã có mặt ngay từ buổi đầu dưới ngọn cờ đại nghĩa đó. Trong những năm tháng đánh dẹp các sứ quân, Nguyễn Bặc luôn luôn bên cạnh Vạn Thắng Vương và là vị tướng dũng lược tiên phong.

Theo thần phả đình Ba Dân ở Thanh Trì (Hà Nội), ngày 6/6/967 (Đinh Mão), Đinh Bộ Lĩnh điều một đạo quân do tướng Nguyễn Bồ chỉ huy tiến đánh sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt, một sứ quân mạnh nhất lúc bấy giờ, nhưng nhiều ngày vẫn không hạ được thành. Tướng Nguyễn Bồ cùng ba tướng khác, cùng rất nhiều binh lính đều tử trận. Đinh Bộ Lĩnh cả giận thống lĩnh toàn quân, cử Nguyễn Bặc làm Đại tướng tiên phong, đánh một trận phá tan sứ quân Nguyễn Siêu vào ngày 15/7/967 (Đinh Mão). Đến nay 4 làng Tây Phù Liệt còn đền thờ các tướng Nguyễn Bặc và Nguyễn Bồ làm Thành hoàng. Chiến thắng Tây Phù Liệt phá tan sứ quân Nguyễn Siêu có ý nghĩa quyết định trong việc kết thúc thắng lợi công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân, đưa giang sơn về một mối của nghĩa quân Hoa Lư do Vạn Thắng Vương thống lĩnh.

Nguyễn Bặc trưởng thành nhanh chóng, trở thành một vị đại tướng tài ba bậc nhất của Vạn Thắng Vương. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, Nguyễn Bặc được xếp là Đệ nhất công thần, đứng đầu các quan văn võ, nhưng khi thiết triều ông khiêm tốn ngồi sau Đinh Điền, vì Ông cho rằng Đinh Điền cũng là bạn đồng niên, đồng hương lại cùng họ với vua Đinh.

Chuyện kể lại rằng, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân thắng lợi, vua Định phân vân nên lấy vị hiệu cũ là Vạn Thắng Vương hay xưng đế, chính Định Quốc Công Nguyễn Bặc tâu rằng: "Ngày này, nhà vua đã thống nhất bờ cõi, thu giang sơn về một mối, dân chúng khắp nơi một lòng quy phục, có thực lực mạnh hơn hẳn Lý Nam Đế và Ngô Vương Quyền trước đây, tại sao chỉ xưng vương mà không xưng đế như các triều vua phương Bắc? Nhà vua không lên ngôi Hoàng đế, dựng nên chính thống của nước Đại Cồ Việt ta thì còn ai làm được việc đó? Trước đây, nhà Nam Hán đem hàng vạn quân thuỷ bộ sang xâm lược nước ta đã bị Ngô Vương Quyền đánh cho tan tác ở cửa sông Bạch Đằng. Nay nhà vua có binh hùng, tướng mạnh gấp nhiều lần thì sợ gì giặc Bắc”.

Nghe lời khuyên của Nguyễn Bặc, các đại thần đồng thanh dâng vị hiệu, Đinh Bộ Lĩnh quyết định xưng Hoàng Dế, hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.

Lại một chuyện khác: Khi tìm đất định đô Đinh Bộ Lĩnh định lập đô ở Đại Hữu quê nhà, nhưng Nguyễn Bặc đã khuyên vua Đinh rằng, đất Đại Hữu không hiểm trở, nên lấy Hoa Lư làm đô. Chính Đại Việt Sử Ký toàn thư cũng chép: “Khi ấy mười hai sứ quân đều tự làm hùng trưởng cắt giữ đất đai... vua đánh dẹp được cả, mới tự xưng đế, chọn chỗ đất phẳng ở Đàm Thôn, muốn dựng làm kinh đô, nhưng vì thế đất chật hẹp, lại không có lợi về sự đặt hiểm, nên lại đóng đô ở Hoa Lư (Nay là phủ Trường Yên) ".

Năm Tân Mùi (971), Nguyễn Bặc được Đại Thắng Minh Hoàng Đế gia phong là Khai Quốc Công Thần, Phụ Quốc, Thừa Tướng, Thái Tể Định Quốc Công, tức là vị Tể Tướng đầu tiên trong lịch sử nước ta từ thế kỷ thứ X. Lúc này ông vừa 47 tuổi đời. Là một vị Tể Tướng, ông cũng rất chú ý tiến cử người hiền tải cho vua Đinh. Khi vua Đinh định trao cho ông cả chính quyền và binh quyền, ông đã từ chối và tiến cử Lê Hoàn, một viên tướng trẻ đầy tài năng, hiện đang dưới quyền Nam Việt Vương Đinh Liễn, lên làm Thập Đạo Tướng Quân (chức tổng chỉ huy quân đội thời Đinh).

Trong ngót 10 năm, với vị trí là người đứng đầu bộ máy hành chính triều Đinh, Nguyễn Bặc đã giúp vua Đinh xây dựng hệ thống chính quyền phong kiến tập trung, thống nhất, xoá bỏ cát cứ, xây thành, đắp hào, làm cung điện, đặt triều nghi. Về kinh tế, nhà Đinh đã chú trọng phát triển nông nghiệp và mở mang ngành nghề thủ công. Về quân sự, đã xây dựng quân đội thống nhất gồm 10 đạo, phiên chế thành các lữ, tốt. Đây là lực lượng quân đội khá hùng mạnh lúc bấy giờ và là lực lượng chủ lực để phá Tống, bình Chiêm sau này. Về ngoại giao, quan hệ bang giao với nhà Tống lúc bấy giờ cũng rất thành công, Trong, vòng 8 năm, từ năm 969 đến 977, triều Đinh đã 5 lần cử phái đoàn sứ giả sang Trung Quốc giao hảo và được nhà Tống cử sử thần sang đáp lễ. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phong kiến Trung Quốc công nhận nước ta là một nước độc lập, tự chủ. Phan Huy Chú nhận xét: “Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục và mở mang bờ cõi, bấy giờ Trung Quốc mới công nhận nước ta đứng riêng là một nước".

Đêm Trung thu năm Ký Mão (979), Đinh Tiên Hoàng, và con trai là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Sau đó, triều đình tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên làm vua kế vị. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn xưng là Phó Vương, lại có tình riêng với Thái Hậu Dương Vân Nga. Đinh Điền và Nguyễn Bặc hồi quân ở Ái Châu (Thanh Hoá) kéo về Hoa Lư để đánh Lê Hoàn. Sử cũ chép “Bây giờ Hoàn mới chỉnh đốn bình sĩ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô (Thanh Hóa). Điền, Bặc thua chạy, lại đem thuỷ quân ra đánh. Hoàn nhân gió phóng lửa đốt chiến thuyền, chém Điền tại trận, bắt được Bặc đóng cũi đưa về kinh sư kể tội...bèn chém đầu để rao. Theo gia phả thì Nguyễn Bặc bị hành quyết ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão, tức là ngày 7/11/979 ở Ngô Khê Thượng, ngoại thành Hoa Lư. Kinh thành Hoa Lư có 9 vòng thành, Ngô Khê Thượng là vòng thành thứ 7, là nhiệm sở của ông khi còn sống. Đến nay ở đây vẫn còn đền thờ và có tượng của ông.

Sau khi Nguyễn Bặc bị hành quyết, gia thần của ông lượm xác, đưa xuống thuyền chở về an táng tại Đại Hữu quê nhà. Đến thời nhà Lý, ông được truy phong là Phúc Thần.

Khi bàn về việc Đinh Điền và Nguyễn Bặc dấy quân chống lại Lê Hoàn, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Ngày xưa, Chu Công là người tôn thất rất thân giúp vua còn nhỏ tuổi, còn không khỏi có lời gièm pha. Lê Hoàn là đại thần họ khác, tay nắm binh quyền, lại làm việc như Chu Công, thường tình còn ngờ, huông chi Nguyễn Bặc ở chức Tể tướng và Đinh Điền là đại thần cùng họ. Việc khởi binh ấy không phải là làm loạn, mà là một lòng phò tá họ Đinh, đánh Hoàn không được mà chết, cái chết ấy là đáng chỗ".

Sau khi Nguyễn Bặc bị hành quyết, con cháu ông bỏ lành chạy lên Bắc Ninh và Tống Sơn (Thanh Hoá). Nguyễn Bặc có hai con trai là Nguyễn Đê và Nguyễn Đạt. Sau này Nguyễn Đê và Nguyễn Đạt đã giúp Lý Công Uẩn lật đổ Lê Ngọa Triều lên ngôi vua thay nhà Tiền Lê đã mục nát.

Dòng Nguyễn Đê, con cả Nguyễn Bặc, về sau cũng rất phát đạt. Nguyễn Trãi thuộc đời thứ 11. Nguyễn Hoàng, Chúa Nguyễn đầu tiên mở mang và gây nên nghiệp lớn nhà Nguyễn sau này thuộc đời thứ 16 của Nguyễn Bặc. 

Nguyễn Bặc là một trong những nhân vật lịch sử xuất sắc của đất nước ta trong thế kỷ X, là một vị anh hùng dân tộc có công lớn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, dựng nền chính thống Đại Cồ Việt. Có khá nhiều thơ văn, câu đối ca ngợi công đức của ông. Từ đường họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Ninh, xã Gia Phương (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) là quê hương của ông, có bức đại tự rất đáng tự hào "Khởi nguyên đường” (Khởi đầu dòng họ Nguyễn). Đền thờ ông, ở Ngô Hạ (Ninh Hoà, Hoa Lư, Ninh Bình) cũng có bức đại tự “Trung quán nhật nguyệt" (trong sáng như mặt trời, mặt trăng). Đền thờ họ Nguyễn ở Gia Miêu (Hà Trung, Thanh Hoá) có đôi câu đối rất hay nói lên sự nối tiếp vẻ vang của dòng họ Nguyễn:

"Duệ xuất Gia Miêu vương tích hiển
Khánh lưu Đại Hữu tướng môn quang"

Tạm dịch:

"Cửa tướng phúc dày làng Đại Hữu
Dòng Vương nối ở đất Gia Miêu."

0 nhận xét:

Đăng nhận xét